Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Đau Lưng


Sau  Nhức đầu thì Đau lưng Lower Back Pain là nguyên nhân thứ nhì gây đau cho mọi người, đặc biệt là với người cao tuổi.. Chăm sóc đau lưng cũng là nguồn phí tổn khá cao, có lẽ chỉ sau các bệnh về tim.
 Với nhiều nhà chuyên môn y tế thì Đau Lưng hầu như là một căn bệnh của đời sống gây ra do thói quen bất thường của người bệnh. Vì họ đứng, họ đi, họ nâng nhấc hoặc lôi kéo sự vật nặng không đúng cách, đưa tới nguy cơ tổn thương cho các thành phần của lưng. Khi đã bị một lần thì đau lưng cũng có nguy cơ tái phát.   
Các nhà chuyên môn cũng ước lượng là 80% các trường hợp Đau Lưng có thể phòng ngừa được nếu ta để ý một chút hoặc nếu ta có vài kiến thức căn bản về cột sống.
 Lưng là phần dưới của thân mình gồm có 5 đốt xương sống, các gân, dây chằng, cơ bắp để giữ lưng ngay thẳng. Các đốt xương này chịu đựng sức nặng của phần trên của thân mình, cho nên chúng rất dễ tổn thương.
Từ các đốt sống này xuất phát dây thần kinh não tủy. Giữa các đốt sống là đĩa sụn liên hợp giúp cột sống cử động trơn tru.

Ðau lưng thường thường gây ra do ba nguyên nhân chính:

-căng cơ bắp-dây chằng trong các hoàn cảnh như mập phì, có thai, người cao tuổi ít vận động, nâng mang vật nặng mà lại dùng sức mạnh của lưng, tư thế không ngay thẳng, nhiều xúc động mạnh…
-thoái hóa đĩa đệm 
-viêm mặt khớp xương.
Ngoài ra, bị chấn thương, u bướu, viêm nhiễm cột sống, nằm ngủ trong vị thế bất thường hoặc nệm quá mềm cũng là nguy cơ gây đau lưng. Nhiều trường hợp phụ nữ với nhũ hoa quá khổ cũng gây ra đau lưng vì lưng chịu một sức nặng ngoài khả năng.
Người cao tuổi thường hay bị đau lưng vì sự thoái hóa cột sống, cơ bắp dây chằng lỏng lẻo, đốt cột sống dễ bị nghiêng vẹo, đè vào dây thần kinh não tủy, gây ra đau. Với các bác, chỉ khom khom di chuyển một chậu cây cảnh hoặc cúi xuống bế đứa cháu nội ngoại cũng dễ dàng ôm lưng nhăn nhó.
Theo các nhà chuyên môn, 80% dân chúng đều bị đau lưng một vài lần nào đó trong cuộc đời. Đau lưng là lý do hàng đầu khiến cho người dưới 45 tuổi phải nghỉ việc.
Đau lưng có thể là cấp tính hoặc kinh niên.
Cấp tính thường kéo dài khoảng 4 tuần lễ còn kinh niên thì liên tục đau, có khi cả dăm ba tháng.
Những cơn đau và cứng khớp thường xảy ra vào buổi sáng sớm và xế chiều. Ban đêm cơn đau khiến người bệnh khó ngủ.
Đau cũng thường thấy ở dưới chân khi đi lại hoặc đứng lâu.

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2012

“Chữa viêm xoang không khó!”


Đó là lời khẳng định của MC Thúy Nga, một “nạn nhân” của bệnh viêm xoang suốt 10 năm.


Các khán giả của chương trình “Sức khỏe cho mọi người” phát sóng trực tiếp trên VTV2 lúc 16h00 chủ nhật hàng tuần, hẳn rất quen thuộc với người dẫn chương trình có giọng nói cuốn hút - MC Thúy Nga. Tuy nhiên, ít ai biết rằng chị từng rất khổ sở vì chứng viêm xoang gây nhức đầu sổ mũi và gây ảnh hưởng đến công việc dẫn chương trình.
Thúy Nga kể: “Mình đã từng dùng nhiều loại kháng sinh. Nhưng bệnh cũng chỉ đỡ được trong một thời gian ngắn rồi lại đâu vào đó, mà người cũng mệt phờ vì tác dụng phụ. Thật may, trong một lần làm phóng sự cho chương trình “Sức khỏe cho mọi người”, nghe PGS.TS Dương Trọng Hiếu (bệnh viện Y học cổ truyền TƯ) giải thích, mình mới hiểu dùng các thuốc kháng sinh hay các thuốc xịt tại chỗ chỉ làm giảm được triệu chứng, muốn điều trị tận gốc bệnh để phòng ngừa tái phát thì nên tìm đến các thuốc Đông y và phải biết rửa mũi đúng cách".
“Mình đã dùng thử 6 hộp Thông Xoang tán theo chỉ dẫn của bác sĩ Hiếu và dùng xi-lanh bơm thật nhiều nước muối sinh lý vào mũi để rửa sạch các xoang. Ngày làm 3-4 lần kết hợp với uống nhiều nước nữa. Bác sĩ cũng lưu ý mình là để nước muối chảy xuống họng rồi nhổ ra chứ không được xì ra qua đường mũi nhé”, Thúy Nga chia sẻ.
Và theo những chỉ dẫn đáng quý này, Thúy Nga đã không còn tái phát bệnh trong suốt 1 năm qua.


Thông xoang tán gồm các vị dược liệu đầu bảng trong điều trị viêm xoang. Thông xoang tán là sản phẩm được nghiên cứu và chuyển giao từ một bài thuốc gia truyền, chứa các vị dược liệu đầu bảng trong trị viêm xoang như tân di, phòng phong....giúp làm loãng và tiêu tán đờm thấp ứ trệ, làm sạch và thông thoáng các xoang, giảm nhanh triệu chứng đau nhức, căng tức, hắt hơi, sổ mũi, ngạt mũi, tiết dịch mũi, v.v....Đặc biệt, Thông xoang tán giúp kháng khuẩn, chống viêm, chống dị ứng và tăng cường sức đề kháng, giúp phòng và giảm nguy cơ tái phát bệnh.
ĐT tư vấn: 043.9953901
Website viemxoang.vn


P/s: Tôi cũng bị viêm xoang nhức đầu rất khó chịu, nhất là ngồi trong buồng điều hòa có gió thổi vào đầu rât khó chịu. Tôi đã uống được 4 hộp sau đó thấy khỏi nên  dừng. Từ khi dừng uống thuốc đến nay (khoảng 1 năm), tôi thường uống nước lạnh, rượu bia, ăn cay. Hiện tại tôi thấy có dấu hiệu tái phát nên tôi tiếp tục uống (có lẽ phải kiêng cữ cẩn thận mới đươc!).

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

Nước uống từ thảo dược - Nguyễn Lân Dũng


Trên thế giới ngoài nước trà chế biến từ lá của cây Chè xanh (tên khoa học là Camellia sinensis, đôi khi được gọi là chè Assam với tên khoa học của một loài phụ là đôi Camellia sinensis assamica). Cây chè có nguồn gốc từ khu vực Đông Nam Á và những nước có chè nổi tiếng là Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan, Nhật Bản, Việt Nam, Sri Lanka...). Ngoài lá dùng để làm các loại nước uống (chè tươi, trà nóng, trà đá...) thì hạt còn được dùng để ép dầu. Nước ta hàng năm xuất khẩu trung bình tới khoảng 2000 tấn chè khô. Diện tích trồng chè là khoảng 125 000 ha và cho sản lượng khoảng trên 1 triệu tấn mỗi năm. Ngoài cây chè thông thường, một số vùng núi phía Bắc còn có Chè tuyết (hay chè San tuyết) lấy từ những cây chè cổ thụ lâu năm mọc trên núi cao (nhất là ở vùng Suối Giàng (Yên Bái). Thời Pháp thuộc, vào thập niên 1930 chè được đem trồng một cách quy mô trên cao nguyên vùng B’Lao và Dji Ring và vùng này sau chiếm địa vị là vựa chè của tỉnh Lâm Đồng. Khi hái chè người ta phân biệt loại 1 là Chè búp (chỉ chọn toàn búp non của cây chè), loại 2 là lá chè thứ hai, thứ ba. Còn chè lấy từ lá thứ tư, thứ năm được gọi là loại được dùng để chế biến Chè mạn.
      
            Chè xanh                                             Chè Tuyết Suối Già
         Bản chất chè là một thảo dược. Các nghiên cứu ở nhiều nước trong lá chè Assam có chứa 22.2% polyphenol, 17.2% protein, 4.3% caffeine, 27.0% cellulose thô, 0.5% tinh bột, 3.5%  đường khử, 6.5% pectin, 2.0% chất chiết xuất bằng ether và 5.6%  tro (muối khoáng). Trong 100 g chè khô còn có chứa một nhiệt lượng khoảng 293 calo, 8.0 g nước, 24.5 g protein, 2.8 g lipidt, 58.8 g hydratcarbon, 8.7 g cellulose, 5.9 g tro, 327 mg Ca, 313 mg P, 24.3 mg Fe, 50 mg Na, 2700 UG đương lượng beta-carotene, 0.07 mg thiamine (B1), 0.8 mg riboflavin (B2), 7.6 mg niacin (B3), và 9 mg acid ascorbic (C) (theo Duke và Atchley, 1984). Lá chè còn có chứa acid malic và acid oxalic cùng với kaempferol, quercitrin, theophylline, theobromine, xanthine, hypoxanthine, adenine, gôm (gums), dextrins, và inositol. Thành phần dầu bay hơi chủ yếu (0.007-0.014% trọng lượng tươi của lá) chủ yếu là hexenal, hexenol, và các aldehyde bậc thấp, butyraldehyde, isobuteraldehyde, isovaleraldehyde, n-hexyl, benzyl và các phenylethyl alcohol, phenol, cresol, hexoic acid, n-octyl alcohol, geraniol, linalool, acetophenone, benzyl alcohol, citral. Một số thành phần trong lá chè có tác dụng chống oxy hóa như catechin, epigallocatechin, epigallocatechin gallate (Leung, 1980).
         Tác dụng dược liệu của chè được xác định từ lâu trong các y văn Trung Hoa. Chủ yếu là các tác dụng chống độc (antitoxic), lợi tiểu (diuretic), long đờm (expectorant), kích thích (stimulant) và kích hoạt dạ dày (stomachic) (theo Leung, 1980). Chè còn có tác dụng co (astringent), kích thích (stimulant) và tác động như chất làm dịu thần kinh (giảm đau đầu). Nó còn có tác dụng làm tiêu tan rối loạn thần kinh (digestive disturbances). Lá chè có tạc dụng dieetjn trực khuẩn lỵ và amib lỵ (amebic dysentery), chống viêm dạ dày-ruột (gastroenteritis) và viêm gan (hepatitis). Ngoài ra còn có hiệu ứng chống xơ vữa động mạch (antiatherosclerotic) và có hoạt tính của vitamin P (theo Leung, 1980).. Duke và Wain (1981) chứng minh chè được dân gian dùng để giảm đau (analgesic), giải độc (antidotal), chất làm se (astringent), trợ tim (cardiotonic), thông trung tiện (carminative), chống viêm (demulcent), trợ giúp tiêu hóa (digestive), lợi tiểu (diuretic), long đờm (expectorant), tăng tiết sữa (lactagogue), gây mê (narcotic), bổ thần kinh (nervine), thanh nhiệt (refrigerant), kích thích (stimulant), kích hoạt dạ dày (stomachic)... .
         Chè rõ ràng là một loại đồ uống tốt, vừa có tác dụng giải khát, vừa có tác dụng bồi dưỡng sức khỏe, tăng sức đề kháng với nhiều loại bệnh tật (kể cả bệnh ung thư).