Trái thơm vị chua, ngọt, ngoài việc dùng để ăn tráng miệng, làm nước uống, làm bánh, người ta còn dùng để trị bệnh
Tên thông thường: Pineapple, Ananas, Nanas, Pina.
Tên khoa học: Ananas comosus, họ Bromeliaceae
Cùng giống: Ananas ananassoides , Ananas bracteatus...
I/ Nguồn gốc:
Người Pháp gọi là "ananas" từ chữ "nana nana" của người da đỏ và thổ dân Paraguay, có nghĩa là "thơm", . Người Tây Ban Nha đặt tên là piña vì nó giống trái thông. Người Anh lấy ý nghĩa này và đặt tên trái này là pineapple.
Thơm là trái cây nhiệt đới, thích hợp với môi trường ẩm thấp, nhưng có thể chịu đựng tới nhiệt độ 28°F (-2°C), nhưng ở nhiệt độ lạnh, cây lớn chậm và trái chua
Hoa thơm
Hoa hơm rụng đi, thành mắt thơm
II/ Thành phần
Trái thơm chứa nhiều enzyme: pectase, invertase, peroxydase, desmolases và nhất là broméline, enzyme đặc biệt nhất của trái thơm. Chất này có trong trái thơm, cộng thơm và lá thơm. Sở dĩ nó làm mềm thịt là nhờ nó có khả năng chia cắt các protéine ra làm những phân tử đơn giản hơn tức là nhỏ hơn (cũng như thể nó "tiêu hóa" giùm ta phần đầu)
Thành phần trung bình cho 100 g thơm
|
|
So sánh khả năng thủy giải:
Enzyme | Khả năng thủy giải tương đương |
Pancréatine | 100 mg |
Trypsine | 24 mg |
Chymotrypsine | 1 mg |
Bromélaïne | 45 mg |
Papaïne | 60 mg |
III/ Công dụng của broméline
Broméline hiện diện trong thân, lá, cuống thơm nhiều hơn trong thịt trái thơm. Người ta ly trích chất broméline từ vỏ trái thơm, cuống thơm, cọng thơm... , còn thịt trái thơm dùng để ăn.
Ngoài việc phân cắt protéine, (các bạn đừng sợ, vì dạ dày có chất nhờn che chở), ngày nay broméline được trích ra đểđiều chế thuốc tây, để trị nhiều chứng bịnh. Có hai cách trị liệu:
- Uống:
làm giảm đau khớp, làm cho dễ tiêu hóa, tham dự vào việc giải tỏa sự bế tắt đường hô hấp, chữa bịnh viêm xoang, bịnh viêm tĩnh mạch, bớt sự trở lại chứng nhồi máu và những cơn viêm họng, giúp cho một số thuốc hấp thụ được, hỗ trợ cho việc trị các khối ung thư
- Xức bên ngoài:
giúp mau lành sẹo các vết thương dưới da: broméline dùng để làm lành vết thương và thành sẹo nhanh chóng sau khi giải phẫu hay bị thương vì thể thao.
IV/ Những nghiên cứu lâm sàng:
1) Chữa trị chấn thương
Dùng broméline để chữa bệnh sưng phù sau khi bị chấn thương. Dùng với liều lượng cao, sẽ làm giảm đau, sưng phù. Năm 1960 một nghiên cứu trên 146 võ sĩ quyền anh đau vì bị đụng giập và bọc máu thì 78% được chữa trị với broméline thì sau 3-4 ngày là hết ,trong lúc không dùng broméline thì chỉ 14% người lành. Số còn lại thì những người uống broméline hoàn toàn lành hẳn sau 8 ngày so với 14 ngày cho những người không dùng broméline.
2) Chữa thấp khớp:
Hôm tháng 2 vừa qua, những nhà khoa học đã thử nghiệm một tổng hợp mới và hy vọng rằng chất broméline có thể làm giàm đau nhức các chứng thấp khớp (Arthrose) nơi đầu gối hay bả vai
a) Đau nhức xương đầu gối
Các nhà khoa học phân tích kết quả của 10 cuộc nghiên cứu trên tác dụng của chất broméline trên chứng đau khớp đầu gối, với lượng hàng ngày là 60 mg tơi 1890 mg.
Một trong số 10 nghiên cứu đó mang lại kết quả là broméline làm giảm sưng cho 18 bệnh nhân trong số 29 người đau chứng thấp khớp. Một nghiên cứu khác để mở ngõ cho mọi người tham gia, dùng broméline 200 mg, hay 400 mg mỗi ngày và họ cảm thấy rằng sự cử động các khớp xương dễ dàng hơn và đồng thời giảm bớt sự cứng ngắc.
b) Đau nhức bả vai:
Có hai nghiên cứu lâm sàng trên thấp khớp nơi bả vai là cho bệnh nhân dùng liều lượng 540 mg broméline mỗi ngày thì hình như có hiệu quá gấn như chất diclofénec
V / Ăn trái thơm có làm giảm cân không ?
Người ta quảng cáo rằng ăn thơm làm giảm cân vì chất broméline là một "enzyme tiêu mỡ" . Nhưng thực tế thì những cây họ broméliacée có chứa enzyme broméline hầu hết ở trong thân cây, trong cuống, lõi thơm nhưng có ít trong thịt trái thơm.
Broméline là một protéase nên chỉ tác dụng trên các protéine. Công dụng của broméline không đáng kể so với cácenzyme do cơ thể chúng ta tạo ra. Bởi vậy ăn thơm hay uống các viên thuốc broméline trích từ cây thơm, đều không có tác dụng làm giảm cân.